Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Có phải bệnh Niu - cat - xơn là bệnh gà rù và nguy hiểm nhất hay không? Nếu phải thì tại sao không gọi là bệnh gà rù cho dễ đọc và dễ nhớ. Đề nghị cho biết chi tiết quá trình diễn biến và biểu hiện của bệnh ?

Bệnh Niu - cat - xơn thực chất là bệnh dịch tả gà (Pestidis Avium, viết tắt PA). Xưa kia khi dựa trên cơ sở tính chất bệnh mà người ta chia dịch tả gà thành 2 loại: dịch tả gà Châu Âu hay còn gọi là dịch tả gà cổ điển (Pestis Classica Avium) và dịch tả gà Châu Á (Pseudopestis Avium).

Bệnh được Perroncito phát hiện và mô tả lần đầu tiên ở Italia năm 1878, sau đó Kraneal và Picard công bố ở Indonesia năm 1928.

Cùng thời gian này một số thương gia người Anh mua gà từ Indonesia mang về nuôi tại vùng Newcastle (Niu - cat - xơn). Bất ngờ bệnh dịch tả gà bùng phát dữ dội và lây lan hết sức nhanh chóng ra khắp nước Anh gây nhiều thiệt hại về kinh tế.

Dần dần dịch tả gà Châu Á từ Anh lây lan sang các nước Châu Âu khác và ngày nay có mặt khắp thế giới. Các nhà nghiên cứu thú y cũng đã khẳng định: dịch tả gà Châu Á nguy hiểm nhất và phổ biến trên khắp hành tinh chúng ta. Để kỷ niệm nơi bùng phát dịch tả gà, các nhà chuyên môn gia cầm thế giới đã thống nhất đặt tên bệnh Newcastle (Niu - cat - xơn) nhằm ghi nhớ nơi xảy ra bệnh nguy hiểm này

 

Ở Việt Nam chúng ta, dịch tả gà gây nhiều tổn thất trên khắp mọi miền đất nước. Trong quá trình phát bệnh gà có biểu hiện ủ rũ, biếng ăn, chảy dãi, mào thâm, chướng diều và chết rất nhanh, chết ồ ạt. Thấy vậy nhân dân ta gọi đó là bệnh gà rù, một số nhà khoa học dịch từ tiếng Trung Quốc sang gọi là Tân thành gà.

Tất cả các tên: gà rù, Tân thành gà, Niu - cat - xơn về thực chất đều chỉ bệnh dịch tả gà.

Như vậy ngay cả trong phạm vi nước ta dịch tả gà cũng có nhiều tên khác nhau, khiến cho người dân cũng không biết tên nào đúng nhất, đôi khi còn lầm tưởng và cho rằng đó là những bệnh khác nhau.

Chính vì thế, nhân dịp này chúng tôi đề nghị tất cả các nhà khoa học, các bạn đồng nghịêp và những người dân có liên quan đến chăn nuôi thú y hãy gọi bệnh dịch tả bằng chính cái tên của nó Newcastle (Niu - cat - xơn):

Định nghĩa bệnh:

Niu - cat - xơn là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất ở gà, bởi tính nguy hại do bệnh gây ra: tỷ lệ chết rất cao, giảm năng suất thịt, trứng; tiêu tốn thức ăn và các chi phí khác đều tăng, phá vỡ kế hoạch sản xuất, gây hậu quả lây lan, phát tán bệnh rất mạnh trên diện rộng. Bệnh có tên khoa học tiếng Anh là Newcastle Disecase, viết tắt là ND).

Bệnh do Paramyxovirut Avian chủng 1 gây ra, phụ thuộc vào độc lực của virut gây bệnh các nhà nghiên cứu đã phân tích các mức độ bệnh Niu - cat - xơn thành 3 thể:

Cấp tính (dạng phát nhanh) do Velogenic virut có độc lực cao.

Dưới cấp (dạng phát trung bình) do Mesogenic virut với độc lực trung bình.

Mãn tính (dạng phát chậm) do Lentogenic virut với độc lực yếu gây ra.

Dịch tễ bệnh:

Như trên đã nêu: virut bệnh Niu - cat - xơn (NDV) dù có những mức độ độc lực khác nhau, nhưng khi thâm nhập vào cơ thể chúng nhanh chóng vào đường huyết đến khắp cơ thể sống khá lâu trong tất cả các cơ quan của gà, ở đó chúng ít nhiều có các tác dụng xấu lên các chức năng sinh lý, sinh sản, sinh hoá của gà, làm rối loạn chức năng của nhiều cơ quan thuộc các hệ thần kinh, tiêu hóa, hô hấp, sinh sản…

Virut có tính biến dị rất lớn và ngày tăng khả năng gây bệnh, đặc biệt trong cùng một cơ sở chăn nuôi có nhiều lứa tuổi gà khác nhau, thì khi bị bệnh phát ra ở một lứa nào đó, chúng ta đã thấy các lứa tuổi sau, đàn sau bệnh bao giờ cũng nặng hơn đàn trước hoặc lứa trước.

Virut chỉ gây bệnh trên gà và các loại hoang cầm cùng nòi như: cút, vẹt, khiếu, sáo, gà tây, chim sẻ, bồ câu, đà điểu… Bệnh không thấy: Ngan, vịt, ngỗng.

Bệnh xảy ra quanh năm không phụ thuộc vào mùa thời tiết: Tuy nhiên ở miền Bắc nước ta vào mùa đông và đầu mùa xuân thấy bệnh nổ ra thường xuyên hơn.

Quá trình nhiễm virut (NDV) xảy ra bằng nhiều cách: Trực tiếp hoặc gián tiếp: qua đường miệng, đường hô hấp, qua giao phối, qua vết thương… virut gây bệnh qua không khí có thể mang bệnh đến nơi khác hàng km. Song những trứng của những đàn gà bị bệnh lại không nguy hiểm lắm trong việc truyền bệnh nếu được khử trùng trước khi đưa vào lò ấp.

Bệnh chỉ truyền ngang (tức là từ gà sang gà) chứ không truyền dọc (tức không truyền qua phôi).

Bệnh gây chết rất cao 70 -10%, có tính dịch lớn, lây lan rất nhanh thành vùng dịch.

Năm 1986 trại gà Phúc Thịnh – Đông Anh – Hà Nội bệnh Niu - cat - xơn đã cướp mất 56.000 gà. Năm 1984 – 1985 tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương - Viện chăn nuôi quốc gia đã phải giết và huỷ 18.000 gà các loại. Các xí nghiệp chăn nuôi gà lớn ở miền Bắc như: Nhân Lễ - Gia Lâm, Tam Đảo – Vĩnh Phúc, Lương Mỹ - Hà Tây… đều ít nhất đôi lần bị Niu - cat - xơn tàn phá.

Cơ chế sinh  bệnh.

NDV qua đường miệng hay hô hấp hoặc đường giao phối nhanh chóng sinh sôi và nhập vào đường huyết, tại đây chúng tiếp tục sinh sản mạnh và gây hiện tượng nhiễm trùng huyết. Nếu gà yếu, hiện tượng này giữ cho đến lúc gà chết. Nếu gà khoẻ, NDV được truyền tải đến khắp cơ thể, lúc đó NDV dần dần không còn trong máu, nhưng chúng lại ký sinh trong các cơ quan khác của cơ thể, hệ thần kinh là nơi lý tưởng nhất để virut lưu trú, tại đây chúng gây rối loạn các chức năng điều khiển của thần kinh và gây viêm não rất nặng. Các niêm mạc thuộc hệ hô hấp (niêm mạc, mũi, họng, phổi) cũng là nơi NDV sinh sống khá lâu và đương nhiên chúng cũng gây viêm với các biểu hiện ho hen, rối loạn hô hấp… Sau hệ hô hấp là hệ tiêu hoá bị virut Niu - cat - xơn tàn phá nặng nề.

Triệu chứng lâm sàng Niu - cat - xơn.

Quá trình phát bệnh và biểu hiện bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó độc lực của virut gây bệnh (NDV) đóng vai trò quyết định.

Thể cấp tính (dạng phát nhanh).

Các biểu hiện ở thế cấp tính chủ yếu thuộc về nhiễm trùng huyết:

Thời gian nung bệnh ngắn : 3- 5 ngày ít khi kéo dài hơn.

Gà bỏ ăn, ủ rũ nhanh chóng (rù), buồn ngủ, tiêu chảy mạnh, mào tím tái, thở khó kèm theo hen hoặc xoặc.

Chảy nước dãi, đôi khi kéo thành sợi, đôi khi thấy viêm mọng mí mắt.

Khi tách mỏ thấy màng giả trắng vùng họng, điều trị chướng hơi, chứa thứa ăn không tiêu.

Vạch hậu môn thấy xung quanh lỗ huyệt bẩn do nhiều phân xanh, trắng bám dính. Niêm mạc lỗ huyệt bao giờ bị viêm xuất huyết.

Đối với gà đẻ, chỉ sau 1 -2 ngày bị bệnh thì năng suất trứng giảm rõ rệt, thấy nhiều trứng dị hình, vỏ mềm dễ vỡ với những kích thước khác nhau.

Thể trạng gà xấu đi nhanh chóng và chết.

Tỷ lệ chết ở thể cấp tính rất cao 60 – 90%.

Thể dưới cấp ( Dạng phát trung bình).

Các thể biểu hiện của dạng trung bình vẫn bao gồm các triệu chứng của nhiễm trùng huyết nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Thay vào đó là các triệu chứng về hô hấp tiêu hoá và thần kinh lại thể hiện rõ hơn.

Các triệu chứng đường hô hấp.

Viêm mũi, thanh khí quản.

Nước dãi, nước mũi, chảy dàn dụa.

Gà khó thở và mở bán mở để hít khí.

Tiếng ho hen hoặc xoặc phát ra liên tục kèm theo tiếng rít mạnh, đôi khi phát ra tiếng “toóc”. Ho hen gà khi bị Niu - cat - xơn ở thể phát bệnh trung bình này rất điển hình. Song đáng tiếc là trong thực tế có đa số cán bộ kỹ thuật lại không mấy chú trọng và luôn nhầm tưởng đó là CRD. Chúng ta cần chú ý khi quan sát động tác ho hen của bệnh Niu - cat - xơn thì thấy thỉnh thoảng gà cũng rướn cổ về phía trước để hút khí giống như viêm thanh khí quản truyền nhiễm, nhưng khác ở chỗ là ngay sau đó gà phát ra tiếng “toóc” chứ không khạc đờm như ở viêm khí quản truyền nhiễm.

 

Các biểu hiện thần kinh.

Liệt hoặc bán liệt cánh chân. Nhiều trường hợp 1 trong 2 cánh sãi xuống tận đất.

Nhiều gà đứng lẻ loi, rụt cổ, chảy nước dãi, hoặc nằm tụm đống kêu khác lạ, khi xua đuổi chúng có những chuyển động theo kiểu động kinh.

Co dật từng nhóm cơ, nhất là vùng cổ gà bị ngoẹo đầu ngoẹo cổ hoặc về bên trái, hoặc về bên phải hoặc sát xuống bụng hoặc vắt ra sau lưng trông rất thảm hại.

Một số gà bị chết sau 4 -10 ngày phát bệnh, một số khác dần dần hồi phục, khoẻ trở lại bình thường nhưng mang mầm bệnh hàng năm trời. Trong số những con khỏi đó bị đi lặc, có con bị ngoẹo cổ, bại cánh, bại chân một thời gian khá dài.

Các biểu hiện về đường tiêu hóa.

Gà ốm kém ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn.

Vì thức ăn không tiêu nên diều, ruột chứa nhiều hơi.

Gà đi tiêu chảy nước, phân xanh, nền chuồng ướt, ẩm.

Tỷ lệ chết ở dưới cấp dao động 20 – 60%.

Thể không điển hình, thể phát chậm (Niu - cat - xơn không điển hình).

Đây là những trường hợp bệnh Niu - cat - xơn xảy ra ở những đàn gà đã được tiêm chủng vacxin, tức là bệnh xảy ra ở những đàn gà đáp ứng miễn dịch chưa đầy đủ.

Bức tranh thật đơn giản nhưng lại rất khó chẩn đoán đối với những cán bộ kỹ thuật thiếu kinh nghiệm. Chúng tôi có thể mô tả tóm tắt Niu - cat - xơn thể không điển hình như sau:

Trong khi đàn gà vẫn đang ăn uống bình thường thì thấy một số gà kém ăn một chút rồi từ từ bỏ ăn. Chúng gầy khô, lông kém mượt, da chân, da mỏ kém bóng.

Gà bị ỉa chảy phân xanh hoặc xanh vàng trắng.

Đàn gà có nhiều con ho hen, lỗ huyệt bẩn ướt.

Số gà ốm nói trên tăng từ từ.

Ngày nào cũng có một số gà chết, trong khi đàn gà vẫn tiếp tục ăn uống đi lại bình thường. Số gà chết không nhiều nhưng việc gà chết rải rác đó có xu thế tăng dần lên về số lượng sau mỗi ngày. Nếu chúng ta can thiệp ngay thì bênh sẽ dừng, nếu không sau 15 – 20 ngày bệnh sẽ thành dịch và gây thiệt hại đáng kể.

Đối với gà đẻ, sản lượng trứng lúc đầu không thấy giảm nhưng có nhiều trứng dị hình, trứng đẻ ra vỏ mềm, dễ vỡ… Sau khoảng 10 -15 ngày thì sản lượng trứng mới bắt đầu giảm và cũng giảm từ từ.

Thể bệnh không điển hình do thường xảy ra ở những đàn gà đã được tiêm chủng vacxin Lasota hoặc Niu - cat - xơn H1 và có quá trình phát bệnh kéo dài, biểu hiện bệnh chủ yếu thuộc về đường hô hấp, cho nên bức tranh lâm sàng rất giống bệnh CRD. Vì thế những người chăn nuôi và cán bộ thú y thiếu kinh nghiệm thường không nghĩ đó là bệnh Niu - cat - xơn.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình