Định nghĩa bệnh:
Bệnh nấm phổi ở gà là một bệnh ho hen truyền lây gây viêm đường hô hấp do một loài nấm Aspergillus gây ra. Bệnh thấy ở tất cả các lứa tuổi gà nhưng nặng nhất và thường xuyên thấy ở gà con dưới 1 tháng tuổi.
Bệnh có tên chính thức Aspegillosis Avium.
Dịch tễ bệnh:
Loài nấm gây bệnh ở gà gồm 3 loại :
Aspergilluss fumigatus: Nấm xanh
Aspergilluss Flavus: Nấm vàng
Aspergillus Niger: Nấm đen.
Chúng phát triển tốt trong các nơi có độ ẩm cao như máy ấp máy nở, thức ăn, chất độn đặc biệt là sự có mặt các chất hữu cơ và hơi nước. Chúng có khả năng sinh ra độc tố làm tổn thương đến các hoạt động của các hệ thần kinh, hô hấp và tiêu hóa. Sau khi phát triển, chúng tạo thành các bào tử và tồn tại hàng năm trong môi trường thiên nhiên có độ ẩm thích hợp. Chúng dễ bị tiêu diệt bởi nước sôi 1000, 2% foocmôn, 3% NaOH, 8% CuSO4 trong vòng 10 phút đến 24h.
Chúng đồng thời là nguyên nhân gây nấm phổi ở vịt, ngan, ngỗng, gà Tây.
Gia cầm bị nhiễm nấm chủ yếu qua đường hô hấp, nguy hiểm nhất là nấm có trong máy ấp máy nở có thể gây bệnh cho gà con ngay sau khi xuống chuồng nuôi với số lượng lớn. Nấm cũng rất dễ phát triển ngay trên vỏ trứng, đây là nguồn bệnh nguy hiển cho chính những gà nở ra từ những trứng giống đó. Vì thế, khi đưa trứng vào ấp buộc phải khử trùng bằng cách xông Foocmôn và thuốc tím.
Sự bùng phát bệnh nấm phổi gắn liền với các yếu tố stress có hại, nhất là trong thức ăn không đủ vitamin A.
Cơ chế gây bệnh.
Qua đường hô hấp hay đường miệng, nấm aspergillus thâm nhập vào cơ thể. Tại nơi đó chúng gây viêm, chỗ viêm nhanh chóng bị hoạI tử. Nấm phát triển rất nhanh nhưng không tạo thành cây. Lúc đó nếu sức khỏe gà tốt thì bệnh có thể không xảy ra. Nhưng nếu sức khỏe kém lại có các yếu tố và gây bệnh bất lợi tác động thì nấm mọc thành cây, tiết ra vô số những ổ viêm hoại tử. Nếu số lượng nấm lớn thì khối lượng độc tố cũng cao nhập vào đường huyết và đương nhiên bệnh sẽ ngày một nặng, gà bị rối loạn cả chức năng của hệ thần kinh, tiêu hóa.
Triệu chứng lâm sàng.
Bệnh có 2 thể biểu hiện. Cấp tính và mãn tính.
Thể cấp tính: thể cấp tính chỉ xảy ra ở gà con đến 1 tháng tuổi, đặc biệt là gà con mới nở 2 – 7 ngày tuổi.
Gà con xù lông, kém ăn, ủ rũ.
Uống nhiều nước và tiêu chảy.
Thở nhanh, thở dốc (khó thở) gà phải há mồm rộng, rướn cổ để hít khí.
Ho đau, ho rên rỉ, và có những tiếng lạo xạo trong phế nang.
Chảy nước mũi, gà bị viêm não nên hay nằm nghiên hoặc đi loạng choạng run rẩy.
Thể trạng suy nhược do tiêu chảy mạnh, đôi khi phân lẫn máu.
Gà bệnh chết nhanh, tỷ lệ chết rất cao 60 – 80% và chết ồ ạt trong vòng 3 – 7 ngày.
Thể mãn tính: Thể mãn tính thường thấy ở gà lớn hơn 1 tháng tuổi với các biểu hiện như ở thể cấp tính, nhưng nhẹ hơn nhiều, số gà ốm ít, tỷ lệ chết thấp – không đáng kể. Nhưng do chứa nhiều độc tố trong cơ thể, nên những gà bệnh thể mãn tính sau này bị tích nước xoang bụng, sẽ bị chết do viêm phúc mạc, viêm dính túi khí với các cơ quan khác hoặc do tiêu chảy kéo dài mà cơ thể bị suy nhược
Mổ khám bệnh tích.
Có nhiều trường hợp bệnh tích dễ dàng nhìn thấy ở phổi hoặc túi khí.
Phổi bị thùy thũng, có nhiều nốt vàng xanh (ổ nấm) hoặc vàng trắng xám xanh - bị viêm rất nặng và bị gan hóa.
Túi khí đục, dầy, trên bề mặt có khá nhiều các cục nấm hình đĩa có bờ bám vào màng túi khí, khi quan sát kỹ chúng có hình xoáy ốc. Ở thể mãn tính các cục nấm có thể liền với nhau tạo ra các ổ viêm lớn không vỏ bọc, thời gian trôi đi chúng bị canxi hóa thành thối rữa.
Niêm mạc đường hô hấp trên cũng bị viêm dồn máu nên niêm mạc bị đỏ tấy, phủ một lớp dầy thẩm xuất chứa nhiều hạt nấm, khi xoa nhẹ thẩm xuất đó bằng hai đầu ngón tay ta thấy gợn gợn, lạo xạo hạt nấm.
Ruột bị viêm nặng do nấm phát triển mạnh tạo nên vô số nốt vàng xanh đến 1mm.
Có một số trường hợp khi mổ khám thiếu vắng các bệnh tích tạo cục nấm điển hình ở phổi, túi khí và não. Song phổi luôn bị thùy thũng cả lá phổi hoặc cả phổi.
Chẩn đoán phân biệt.
a. Bệnh bạch lỵ: có một số trường hợp cũng xuất hiện các ổ viêm hoại tử ở phổi. Song ở bệnh lỵ luôn kèm theo lách sưng to và ở các cơ thể này hay cá thể khía có các điểm hoại tử trắng ngà trên gan mà bệnh nấm phổi không có.
b. Bệnh lao gà:
Bệnh lao gà cũng có nhiều ổ viêm hoại tử bị can xi hóa ở phổi giống như nấm phổi. Song chỉ thấy ở gà lớn, chứ không xuất hiện ở gà con và các ổ lao còn thấy phần đông ở gan, lách, ruột...hơn là ở phổi.
Điều trị bệnh nấm phổi
Bệnh nấm phổi rất dễ chữa, nhưng làm sạch nấm trong cơ sở chăn nuôi luôn là vấn đề khó.
Điều trị nấm phổi theo những cách sau đây:
Cách 1: Dùng 0,5% dung dịch K1: 10ml phun sương cho 1m3 không gian chuồng đóng kín cửa 40 phút/lần/ngày và làm như vậy 6 – 7 ngày liên tục.
Cách 2:
- T.Fungicid. Thái 10gr
- T.Stimulan 1 thìa canh đầy
Thuốc trộn vào thức ăn dùng cho 100 kg gà trong ngày đêm và dùng liên tục 5-6 ngày, bệnh chắc chắn sẽ khỏi.
Cách 3: Có thể dùng các chất nguyên liệu như:
Nystatin
Mycostatin
Tiabendazol
Liều dùng theo hướng dẫn của bác sĩ thú y.
Phòng bệnh.
Trứng làm giống phải được bảo quản nơi khô ráo, nếu bẩn thì dùng dẻ khô để lau chùi, cấm không được rửa trứng. Trước khi ấp phải xông trứng trong phòng kín bằng Foocmôn và thuốc tím (KmnO4)
125g KMnO4 + 30ml foocmôn +25ml nước cho 10m3 không khí, sau 1 giờ thì có thể đưa vào ấp.
Máy ấp, máy nở cũng phải được xông foócmôn với thuốc tím như trên (chú ý khi xông máy ấp và máy nở phải xông luôn các khay đựng trứng, các dụng cụ soi trứng…
Chuồng trại, dụng cụ, trang thiết bị phải khử trùng bằng 1-1,5% thậm chí 2% foócmôn ít nhất 2 lần.
Thức ăn dùng cho gà con phải giàu (có đủ, thậm chí hơi cao một chút) Vitamin A.
Chất độn chuồng và nền chuồng gà lúc nào cũng phải giữ thật khô rá |