Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Hội chứng gà còi cọc có phải là một bệnh truyền nhiễm hay không? Cách phòng trị như thế nào?

Hội chứng gà còi cọc do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do một loại Reovirus gây ra. Vì vậy hội chứng còi cọc được xem là một bệnh truyền nhiễm.

1. Định nghĩa Hội chứng còi cọc.

Trước đây trong chăn nuôi gà tập trung thường có 1-5% tỷ lệ còi cọc, vào đầu những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước tỷ lệ còi cọc, tăng lên đáng sợ 20-40% tại hầu hết các nước có nền chăn nuôi gà công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Israel… Khi đó người ta đổ lỗi cho các nhà di truyền chọn giống với quan điểm hiện tượng “lại giống”… Sau nhiều công trình nghiên cứu các nhà khoa học không tìm thấy các yếu tố gây “lại giống” tức là họ đã chứng minh còi cọc “lại giống” không phải do di truyền chọn giống mà là do dinh dưỡng. Thế là buộc các nhà nghiên cứu dinh dưỡng phải vào cuộc. Cũng như các nhà di truyền chọn giống, các nhà dinh dưỡng đã không tìm ra những sai khác về dinh dưỡng dẫn đến gà còi cọc hàng loạt như vậy. Câu trả lời cuối cùng dành cho các chuyên gia thú y và họ đã thành công phân lập được Revirut - một loại virut gây còi cọc truyền nhiễm, ở gà.

Trong quá trình hình thành bệnh hội chứng còi cọc được mang rất nhiều tên khác nhau:

Hội chứng gà lùn.

Hội chứng gà xanh xám.

Bệnh trực thăng.

Bệnh hoại tử cơ đầu đùi.

Bệnh dễ gãy xương

2. Dịch tễ Hội chứng còi cọc.

Bệnh còi cọc chỉ xảy ra ở gà từ 1-6 tuần tuổi.

Bệnh có thể truyền dọc qua phôi trứng và có thể truyền ngang lây từ đàn này sang đàn khác.

Bệnh không có tính thời vụ, nhưng lại chịu tác động lớn bởi kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng.

3. Triệu chứng lâm sàng.

+ Nhìn chung cả đàn gà vẫn ăn uống khỏe mạnh bình thường.

+ Nhưng gà ỉa chảy liên tục, phân sống có bọt khí. Khi dùng các loại thuốc kháng sinh điều trị bệnh sẽ thuyên giảm trong 2-3 ngày. Song ngay sau đó tiêu chảy lại tiếp diễn.

+ Hình thể gà xấu xí, chân lùn, đi không vững, lông kém mượt lại bẩn do phân bám.

+ Gà bệnh chậm lớn hẳn so với những con khác cùng lứa tuổi, gây cảm giác như trong đàn gà gồm nhiều lứa tuổi khác nhau và cách nhau 2-3 tuần tuổi.

+ Đến khi gà được 5-6 tuần tuổi thì những gà bệnh có biểu hiện thần kinh rất rõ: Đi không vững, run rẩy và hay ngã khi xua đuổi.

           4. Mổ khám bệnh tích.

Ruột chướng hơi.

Thức ăn không tiêu, dịch nhầy ruột có màu nâu.

Niêm mạc ruột bị viêm cata có màu nâu sẫm.

Lách không sưng, nhưng có nhiều điểm hoại tử.

Gan, thận hầu như bình thường.

Đầu cơ đùi bị viêm hoại tử, khi mới bị bệnh bị viêm đỏ tấy, sau bọ hoại tử thì trở nên trắng bệch.

Tuỵ bị viêm thoái hóa xơ cứng.

Tủy xương nhợt nhạt có màu vàng xám giống như ở bệnh viêm gan virut.

5. Chẩn đoán bệnh còi cọc.

Hội chứng còi cọc dễ phân biệt qua dịch tễ, triệu chứng và mổ khám bệnh tích.

6. Chẩn đoán phân biệt.

Bệnh còi cọc cần được phân biệt với các bệnh:

Bệnh Gumboro.

Diễn biến viêm đầu cơ đùi trong thời gian đầu của hội chứng còi cọc giống như xuất huyết cơ ở bệnh Gumboro, nhưng về giai đoạn cuối thì khác hẳn, đầu cơ thoái hóa, viêm hoại tử bị nhợt nhạt, hội chứng còi cọc không có các biểu hiện ở túi Fabricius, dạ dày tuyến và gà không bị sốt …

Bệnh viêm khớp do Reovirut.

Bệnh chỉ xảy ra ở gà trên 30 ngày tuổi.

Viêm khớp là triệu chứng điển hình, gà không những run rẫy đi lại không vững mà còn bị què.

Bao khớp chứa đầy dịch.

Viên khớp do Reovirut không bị ỉa chảy hàng loạt, niêm mạc và dịch ruột không phải màu nâu. Không có các bệnh tích ở cơ đùi, cơ ngực.

Bệnh viêm khớp do Staphylococcus.

Tỷ lệ mắc bệnh thấp, triệu chứng tập trung ở khớp.

Gà bệnh thường có biểu hiện lâm sàng ở tuổi 8 – 16 tuần.

Không có các biến đổi ở ruột, gan, thận, tuỷ, cơ như còi cọc.

Bệnh viêm não gà (AE).

Bệnh nặng nhất ở gà 2 – 20 ngày tuổi. Không có các biến đổi ở ruột và cơ, gà không bị ỉa chảy, gà không bị lùn.

Run rẩy đi không vững là biểu hiện dễ nhầm với Hội chứng còi cọc. Song ở viêm não còn có sự co thắt cơ đầu, cơ có làm gà co rúm một cách dễ nhìn thấy, gà khỏi bệnh bị đục mắt và trở thành di tật.

7. Điều trị bệnh còi cọc.

Không có thuốc đặc trị, nhưng chúng ta phải chú trọng đến thành phần dinh dưỡng để nâng cao khả năng kháng bệnh của cơ thể, hạn chế sự gia tăng tỷ lệ còi.

8. Phòng bệnh còi cọc.

Do có một số chủng Reovirut gây sụt trứng ở gà đẻ do đó phòng bệnh còi cọc ở gà con được các nhà nghiên cứu chế tạo vacxin chứa nhiều chủng Reovirut để nhằm phòng hội chứng còi cọc và giảm đẻ.

Các vacxin đó là:

+ Avian Reovirut – vacxin vô hoạt của Pháp, tiêm dưới da 0,5ml/1 con.

Lần 1 tiêm dưới da cho gà lúc 4 tuần tuổi.

Lần 2: trước khi vào đẻ (16 – 20 tuần tuổi).

+ Inacti/Vac Reo-vacxin vô hoạt của Pháp chứa 2 chủng S1133 chống viêm khớp và 1733 chống còi cọc.

Cách sử dụng và thời gian dùng như trên.

+ TAD. Reo vac.I - chủng U conn 1133 tiêm dưới da hoặc tiêm bắp cho gà 7 – 10 ngày tuổi lần 1 và nhắc lại lúc 4 tuần tuổi.

Đối với gà đẻ người ta thường dùng vacxin đa giá chống 3 – 4 bệnh trong đó có hội chứng giảm đẻ, còi cọc (Reovirut), viêm khớp.

- ND/IB/EDS/REO (TAD 404) phòng gà rù, viên phế quản, Gumboro, Giảm đẻ và còi cọc viêm khớp.

- DN+IB+IBD+REO (TAD 401) chống gà rù, viên phế quản, Gumboro và còi cọc viêm khớp.

- Inacti/vac.BD3+REO chống Gumboro và còi cọc, viêm khớp.

- Inacti/vac.BD3+ND+REO chống gà rù, Gumboro và còi cọc viêm khớp.

- Inacti/vac.BD3+ND+IB2+REO chống gà rù, viên phế quản, Gumboro và còi cọc viêm khớp.

- Nobivac – Reo+IBD+ND của Hà Lan phòng 3 bệnh? Niu-cat-xơn, Gumboro, giảm đẻ còi cọc.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình