Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
CƠ SỞ DỮ HỎI - ĐÁP KHOA HỌC KỸ THUẬT
Những bệnh nào gây giảm sản lượng trứng? Hội chứng giảm đẻ có phải là một bệnh truyền nhiễm hay không? Bằng cách gì để khắc phục hiện tượng giảm đẻ ở gà?

Những bệnh sau đây gây giảm đẻ ở gà:

Hội chứng sụt đẻ do Adenovirus

Bệnh viêm não gà AE - dịch run rẩy do A. Picornavirus.

Hội chứng còi cọc do Reovirus.

Bệnh Marek - bệnh ung thư truyền nhiễm Marek do Herpesvirus.

Bệnh Lơco do ARN Myxovirus.

Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (IB) do Myxovirus.

Bệnh viêm thanh phế quản truyền nhiễm (ILT) do Herpesvirus.

Bệnh hen gà (CRD) – Mycoplasmosis Respyratoria do vi khuẩn Mycoplasma nhóm PPLO.

Bệnh Niu – cat – xơn (gà tù) do Myxovirus.

Bệnh cầu trùng do nguyên sinh động vật Coccidae họ Eimeria.

Và một số bệnh khác.

Định nghĩa giảm đẻ.

Hiện tượng giảm đẻ, tụt sản lượng trứng của một đàn gà đẻ phải được hiểu như sau:

Khi đàn gà khỏe mạnh bình thường và mỗi ngày đẻ được một số trứng nhất định, số lượng trứng của một đàn tăng dần qua mỗi ngày để rồi đạt đỉnh cao nhất là 90 – 95% đối với gà siêu trứng,  85 – 90% đối với gà kiêm dụng, 80 – 85% đối với gà siêu thịt trên tổng số mái hiện có. Số lượng trứng cao như vậy sẽ giữ nguyên 4 – 5 tháng tiếp theo (nếu không có bệnh nào xảy ra) sau đó lại từ từ giảm xuống.

Năng suất trứng của một mái được tính như sau: Tổng số trứng thu được của một đàn gà đẻ trong một năm chia cho số đầu gà mái bình quân trong năm do đó ta có năng suất trứng (sản lượng trứng) của một mái đẻ/năm.

Năng suất trứng của một giống gà cũng được tính tương tự: Ta lấy tổng số trứng thu được của một giống gà đẻ trong năm chia cho số khẩu phần ăn bình quân của gà đẻ và ta sẽ có sản lượng bình quân hay năng suất trứng của giống, dòng gà cần theo dõi.

Mỗi dòng giống gà khác nhau có năng suất trứng khác nhau.

Ví dụ: Gà Lơgo năng suất bình quân từ 270 – 289 quả trứng/1 mái/1 năm. Gà Silver từ 320 – 340 quả/mái/năm. Gà Gonlai 280 – 300 quả/mái/năm. Gà 707 từ 160 – 180 quả/mái/năm. Gà tam hoàng 180 – 200 quả/mái/năm...

Việc giảm đẻ có thể xảy ra ở một số gà bệnh. Nhưng khi tính tổng số bình quân cả đàn trong cả năm mà ta có năng suất trứng bình quân 1 mái/năm không giảm đẻ thì lúc đó ta không thể kết luận là gà giảm đẻ được. Điều này được giải thích như sau: Trong thời gian bị bệnh do nhiều lý do một số gà (kể cả phần lớn trong đàn) bị giảm đẻ, nhưng ngay sau khi khỏi bệnh chúng lại đẻ đều, đẻ bình thường và thời gian đẻ lại cao kéo dài hơn. Vì thế đến lúc cuối kỳ khi tính toán ta thấy năng suất của một mái không giảm và tổng số trứng/đàn không giảm. Thế nhưng sản lượng trứng của đàn gà bệnh lúc cuối kỳ giảm tức là năng suất bình quân của mỗu gà mái đẻ bị giảm thì đương nhiên chúng ta phảu kết luận đàn gà đó đã giảm đẻ

 Trong thực tế việc giảm đẻ của mỗi cá thể liên quan đến sản lượng của cả đàn, do đó không thể nói năng suất trứng của cả đàn gà không bị giảm, nếu có nhiều cá thể gà đẻ bị sụt kém. Nói chính xác hơn năng suất trứng của mỗu cá thể liên quan mật thiết đến năng suất trứng của cả đàn.

Như đã trình bày ở phần đầu ta thấy có khá nhiều bệnh gây giảm đẻ của gả đẻ chủ yếu vẫn là những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đặc trưng cho lốu chăn nuôi gà tập trung công nghiệp, trong đó nhóm Adenovirus gây tụt đẻ nhiều nhất, đáng lo ngại nhất. Các chủng Adenovirus khác nhau gây ra nhiều loại bệnh khác nhau. Nhưng dù ở loại hình bệnh dịch nào thì việc giảm đẻ cũng thường thấy. Vì thế vào những năm 80, trong những năm 90 của thế kỷ trước các nhà khoa học thế giới đã thống nhất lấy tên bệnh: Hội chứng giảm đẻ ở gà do Adenovirus.

Nói như vậy chúng ta  phải hiểu: Hội chứng giảm đẻ không phải do tất cả các bệnh liên quan đến giảm đẻ như nêu ở phần đầu, mà khi nói đến hội chứng giảm đẻ ở gà là một bệnh truyền nhiễm riêng biệt do các Adenovirus gây  ra.

Hội chứng giảm đẻ.

1. Dịch tễ học hội chứng giảm đẻ EDS.

Nhóm Adenovirus gây ra rất nhiều bệnh ở gà.

Bệnh viêm não tủy và màng não - dịch run rẩy gà.

Bệnh viêm ruột xuất huyết ở gà Tây.

Bệnh viêm gan virus gà.

Bệnh Angara (viêm gan và tích nước bao tim) ở gà.

Hội chứng giảm đẻ ở gà có tên khoa học tiếng Anh là Egg Disesce Sindrom viết tắt là EDS.

EDS là một bệnh mới do một loại Adenovirus dòng B4, virus 127 mà người ta chưa bao giờ thấy trong số 11 chủng Adenovirus gây bệnh ở gia cầm.

Bệnh chỉ xảy ra ở gà sắp và đang đẻ.

Bệnh truyền dọc từ mẹ sang gà con làm giống qua phôi trứng. Cho nên bệnh trở nên rất nguy hiểm cho ngành chăn nuôi gà. Song bệnh cũng có khả năng truyền ngang.

Bệnh bùng phát không phụ thuộc vào mùa vụ khí hậu, bệnh không chịu ảnh hưởng của các yếu tố stress bất lợi.

Bệnh xảy ra trên tất cả các giống, dòng gà, hướng chăn nuôi gà và không phụ thuộc vào phương thức chăn nuôi.

2. Triệu chứng lâm sàng hội chứng giảm đẻ (EDS).

Triệu chứng điển hình nhất là gà đẻ đột nhiên giảm đẻ trong khi sức khỏe đàn gà mới nhìn không có dấu hiệu gì về bệnh lý.

Mức độ giảm đẻ rất khác nhau: 10 – 50% nhưng cũng có đàn tắt đẻ hoàn toàn.

Thời gian giảm đẻ kéo dài khá lâu – liên tục trong mấy tháng liền. Mọi cố gắng và can thiệp đều không mấy tác dụng.

Trứng của mỗi giống gà có màu sắc đặc trưng nay bị thay đổi, vỏ trứng sần sùi, nhăn nheo và biến dạng

Ví dụ:

Trứng của gà Lơgo có màu trắng nay chuyển sang loang chỗ trắng chỗ nâu.

Trứng của gà 707 có màu nâu hồng nay chuyển sang loang chỗ trắng, nâu trắng.

Nếu quan sát kỹ chúng ta thấy một số gà có triệu chứng thiếu máu: màu nhợt nhạt, một số gà bị ỉa chảy.

Đàn gà vẫn khỏe mạnh, ăn uống bình thường, không thấy gà ốm rõ rệt, không có gà chết và nếu có thì đó là hậu quả của bệnh khác hoặc bệnh kế phát.

3. Mổ khám bệnh tích hội chứng giảm đẻ (EDS)

Khi mổ gà khỏe cũng như gà có triệu chứng thiếu máu ta thấy thoái hóa buồng trứng: buồng trứng bị teo, các trứng non không phát triển. Khi làm tiêu bản vì thế bệnh tích cũng chỉ tập trung ở buồng trứng và ống dẫn trứng.

Chẩn đoán hội chứng giảm đẻ (EDS) và chẩn đoán phân biệt.

EDS dễ dàng được chẩn đoán bằng việc đột nhiên tụt sản lượng trứng không có lý do và kéo dài trong nhiều tháng liên tục. Trứng của gà bị EDS có màu khác không đặc trưng cho giống gà đó.

Chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác cũng gây tụt sản lượng trứng.

Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm.

Trứng của bệnh viêm phế quản truyền nhiễm cũng sần sùi, nhăn nheo, méo mó nhưng không bị biến màu gà cũng tự nhiên giảm đẻ mạnh mà không liên quan đến các yếu tố môi trường.

Bệnh Niu – cat – xơn

Gà bị Niu – cat – xơn đẻ ra nhiều trứng vỏ mềm, dễ vỡ với các kích thước rất khác nhau, gà ốm có các triệu chứng ỉa chảy phân xanh, ho hen, thần kinh; tỷ lệ ốm và chết cao.

Các bệnh khác gây giảm đẻ: Đều có triệu chứng, bệnh tích đặc trưng cho mỗI loạI bệnh đó.

Điều trị bệnh EDS.

 Khi có hiện tượng giảm đẻ ở gà chúng ta phải phân làm 2 nhóm:

Nhóm thứ nhất: Giảm đẻ do hiệu quả bệnh lý của một số bệnh truyền nhiễm gây ra (xem phần đầu của câu). Trong những trường hợp như vậy chúng ta muốn khắc phục hiện tượng giảm đẻ của gà trước hết phải chữa trị căn nguyên gây ra giảm đẻ của bệnh đó.

Nhóm thứ hai: Hội chứng giảm đẻ do Adenovirus dòng B4, virus 127. Đây là một tình trạng bệnh riêng biệt và cho đến nay chưa có thuốc nào chữa trị được.

Phòng bệnh EDS.

Tuy bệnh mới được phát hiện, song do tính nguy hiểm mang tính toàn cầu, nên đã có rất nhiều loại vacxin được nghiên cứu, sản xuất và áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.

Để thuận lợi cho việc sử dụng người ta chế các loại vacxin đa giá đang có trên thị trường nước ta là:

- Nobivac – EDS + ND + IBD: Hà Lan phòng Gumboro, Niu – cat – xơn, hội chứng giảm đẻ.

- Talovac 204, Talovac 302, Talovac 303...TAD 402 vacxin chết nhược độc của Đức phong 4 bệnh: Niu – cat – xơn, Gumboro, viêm phế quản, giảm đẻ. Talovac 403 – ND/IB/IC của Đức phòng 4 bệnh: Niu – cat – xơn, viêm phế quản, giảm đẻ, sổ mũi truyền nhiễm.

- Talovac 404 – ND/IB/EDS/REO của Đức phòng 4 bệnh: Niu – cat – xơn, viêm phế quản, giảm đẻ, còi cọc.

- ND + IB + IBD K. blen của Canada phòng 4 bệnh: Niu – cat – xơn, viêm phế quản, giảm đẻ, Gumboro.

- OVO4 của Pháp phòng 4 bệnh: Niu - cat – xơn, viêm phế quản, giảm đẻ, Gumboro.

- Nobivac ND + IB + EDS của Hà Lan phòng 3 bệnh: Niu - cat – xơn, viêm phế quản Niu - cat – xơn, hội chứng giảm đẻ.

- Cevac EDS K của Canada  phòng 2 bệnh Niu - cat – xơn, giảm đẻ.

- Cevac ND-IBD-EDS K của Canada phòng 3 bệnh: Niu - cat – xơn, Gumboro và giảm đẻ.

- Cevac ND + IB + EDSK của Canada phòng 4 bệnh.

Hầu hết các loại vacxin kể trên đều là vacxin vô hoạt nhũ dầu tiêm cho mỗi gà 0.5ml/con vào lúc gà đạt 16 – 20 tuần tuổi và có thể nhắc lại 1 tháng sau đó.

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình