Đăng nhập  
KHOA HỌC Y DƯỢC
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
-   Đăng ký Hộ tịch, Hộ khẩu, CMND
-   Hệ thống luật đất đai
-   Luật sở hữu trí tuệ
-   Luật Doanh nghiệp
-   Luật ban hành Văn bản quy phạm
-   Luật thừa kế
KHOA HỌC KỸ THUẬT
KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
KỸ THUẬT NUÔI CÁC LOÀI GIA SÚC KHÁC
 
HỎI ĐÁP VỀ PHÁP LUẬT
Chẩn đoán bệnh Marek có khó khăn không? Trong thực tế sản xuất chúng tôi rất khó phân biệt khối u giữa Marek với của Lơcô. Làm thế nào để chúng tôi dễ dàng nhận biết khi nào gà chết do Lơcô, khi nào là do Marek và khi nào gà chết do viêm não?

Chẩn đoán bệnh Marek và chẩn đoán phân biệt giữa Marek với Lơcô (tiếp câu trên – Bệnh Marek). Chúng tôi dễ dàng dựa vào các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng học, giải phẫu học để chẩn đoán được bệnh Marek trong một đàn gà. Nhưng trên 1 cá thể gà thì đôi khi chúng ta cũng gặp một số khó khăn. Trong các trường hợp đó ngoài các phương pháp nêu trên chúng ta phải sử dụng các phương pháp huyết thanh học, virus học để khẳng định.

Phương pháp dịch tễ học:

Bệnh chỉ xảy ra ở gà 1,5 tháng trở lên đến 10 tháng tuổi và chủ yếu trong giai đoạn từ trên 3 – 6 tháng tuổi. Bệnh xảy ra ồ ạt trước và sau khi đẻ vài tuần.

Tỷ lệ mắc bệnh cao và tử vong lớn có đàn chết tới 60 – 70% trong khi ở bệnh Lơcô gà thường bị bệnh sau 10 tháng tuổi và tỷ lệ bệnh thấp, tỷ lệ chết tối đa 5 – 10%.

Bệnh Marek chỉ truyền ngang chứ không truyền dọc qua phôi trứng như bệnh Lơcô.

Phương pháp lâm sàng học.

Bệnh Marek có 3 biểu hiện chính:

Các triệu chứng thần kinh liệt và bán liệt. Bệnh Lơcô không có các triệu chứng này.

Các triệu chứng trạng thái ức chế: xù lông sã cánh, hay ngồi với các ngón chân chụm lại, gãy xọp và teo cơ. Gà bị suy nhược nhanh rồi chết trong trạng thái vẫn muốn ăn và uống. Trong khi đó ở Lơcô không thấy gà ngồi với tư thế các ngón chân chụm lại, mà chỉ gầy dần, suy nhược dần rồi chết.

Những biến đổi u ở da và mắt chỉ có ở bệnh Marek chứ không có ở bệnh Lơcô và thường thấy ở bệnh Marek cổ điển từ 8 – 10 tháng tuổi. Bệnh Marek ngày nay chủ yếu phát ra ở thể cấp tính có khối u da và mắt. Hơn nữa khi khám bệnh các bác sĩ thú y thường bỏ qua các quan sát ở da và mắt, họ không thấy các biến đổi đặc thù ấy, họ chỉ thấy sau khi gà đã giết mổ xong.

Phương pháp giải phẫu bệnh lý.

Giải phẫu đại thể.

Bệnh Matek có khối u ở hầu hết các cơ quan: gan, nách, thận, phổi, dạ dày tuyến, ruột kể cả màng treo ruột, buồng trứng, túi Fabricius, cơ đầu, da mắt, thần kinh rõ nhất là thần kinh đùi, tủy xương...trong khi bệnh Lơcô chỉ có khối u ở gan, nách, buồng trứng, túi Fabricius...Khi mổ khám nhiều gà bệnh  trong cùng một đàn chúng ta dễ dàng phát hiện ra bệnh Marek. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào các biến đổi thú y của một cá thể thì quả thực nhiều bác sĩ còn gặp những khó khăn khi họ thấy khối u tập trung ở gan, nách, buồng trứng, và túi Fabricius, nhất là khi khối u chỉ có ở gan và lách. Trong những trường hợp như vậy chúng ta phải cắt bỏ khối u để phân biệt.

Khối u của bệnh Marek không có ranh giới rõ rệt với cơ quan chúng hình thành ra khối u. Khi cắt khối u ra ta thấy khối u khô, màu sắc không đều, đôi lúc thấy điểm hoặc vệt xuất huyết, tụ huyết hoặc hoại tử - Tức là trong khối u có phản ứng viêm khác hơn với bệnh Lơcô.

Khối u của bệnh Lơcô có ranh giới rõ rệt với cơ quan nơi sinh ra khối u, lát cắt khối u bóng, ướt, đều màu. Không có điểm hoặc vệt xuất huyết, hoại tử...tức là trong khối u không có quá trình viêm. Khối u của bệnh Lơcô tập trung chủ yếu ở buồng trứng, gan, nách, túi, Fabricius.

Giải phẫu bệnh lý vi thể.

Khối u của bệnh Marek gồm các loại tế bào:

Lymphô đa nhân, đa hình thức (tế bào Marek).

Tế bào lưới (mô hình liên kết).

Tế bào chưa biệt hóa (tế bào khối u)

Tế bào bạch cầu, thực bào và tiền sinh (Plasmatic).

Trong khối u không có các mao quản mà chỉ thấy tụ huyết xuất huyết hoặc thoái hóa hoại tử.

Khi xem xét cấu trúc tế bào u thì cũng thấy rất rõ các cơ quan nội nhân tế bào, khi u phát triển mạnh và bệnh ở giai đoạn cuối còn thấy quá trình tự tạo các không bào.

Sự tập trung tế bào u ở dây thần kinh trung ương và ngoại biên (đặc biệt là dây thần kinh đùi) đã đủ để cho phép chúng ta khẳng định đó là bệnh Marek, chứ không phải Lơcô hay một bệnh nào khác gây tạo khối u.

Các biến đổi vi thể ở bệnh Marek cấp tính hay mãn tính không có gì khác nhau.

Để giúp các bác sĩ thú y dễ dàng phân biệt bệnh Marek với Lơcô và viêm não truyền nhiễm chúng tôi đựa ra bảng chỉ số bệnh lý cơ bản như sau:

Các chỉ số bệnh lý cơ bản dùng để phân biệt 3 bệnh:

Dấu hiệu bệnh lý

Bệnh Marek

Bệnh Lơcô

Bệnh viêm não truyền nhiễm

1. Dịch tễ học

Tuổi gà thường mắc bệnh có biểu hiện lâm sàng.

- Thể bệnh

- Tỷ lệ chết

- Tử vong

1,5 đến 8 tháng tuổi

 

 

 

Cấp tính và mãn tính

5 – 60%

ồ ạt

Sau 10 tháng

 

 

 

Mãn tính

5 – 8%

Rải rác

1 – 6 tháng

 

 

Cấp tính

10 – 20%

ồ ạt

2. Triệu chứng lâm sàng

- Có biểu hiện thần kinh

- Có biểu hiện ở da, mắt

 

 

 

 

 

 

Không có

 

Không có

 

 

 

không có

3. Bệnh lý đại thể

- Khối u ở da, mắt

- Khối  u ở cơ vân.

- Khối u ở nội tạng

- Khối u ở túi Fabricins

- Khối u ở phổi và thần kinh

 

 

Rất ít thấy

 

 

 

Không có

Không có

thường xuyên có

không có

 

 

Không

Không có

Không có

Không có

Không có

 

 

4. Bệnh lý vi thể

 

- Tổ chức tế bào u.

 

- Hình thái tế bào

 

 

- Bệnh tích thần kinh

 

- Bệnh tích của tế bào u

 

 

Lympho, lưới, plasmatic bạch cầu, thực bào,

...

Đa nhân, đa hình thái

 

Có và chủ yếu ở thần kinh ngoại biên - đùi

 

 

Chỉ có Lympho và nguyên bào

Đơn nhân, đơn hình thái

 

Không có

Không có

 

 

Chỉ có Lympho

 

Không rõ

 

 

Có nhưng ở màng não là chính

 

Không có

5. Các phương pháp xét nghiệm khác

- RIF test

- COFAL test

- RAGP test

 

 

 

Âm tính

Âm tính

Âm tính

 

 

 

Dương tính

Dương tính

Âm tính

 

 

 

Không  phù hợp

Không  phù hợp

Không  phù hợp

Phương pháp huyết thanh học.

Trong các phòng thí nghiệm và các trung tâm nghiên cứu người ta thường dùng các phương pháp sau đây để chẩn đoán bệnh Marek.

+ RIF test – Resistant Inducing Factor của Rukin 1960

+ CoFAL test – Complement Fixation Avian Leucosis của Sharma.

+ Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp và trực tiếp của Calnek (IFT).

+ Miễn dịch thẩm thấu của Chubb và Churchild 1968

+ Phản ứng kết tủa trên thạch (RAGP test).

+ ELISA

Phương pháp virus học.

+ Gây bệnh thực nghiệm.

Làm 10% dung dịch lấy từ gan, nách, thận gà bệnh xử lý vô trùng rồi tiêm dưới da, hoặc bắp cho gà con 1 ngày tuổi. Bệnh sẽ phát ra chúng ta có thể thấy sau 103 ngày. Sau 103 ngày thì phần lớn thuộc bệnh Lơcô, cũng làm như vậy bệnh Lơcô sẽ phát sau 6 tháng sau khi gây bệnh.

+ Embrion test – test của V. Biilow.

Cũng với dung dịch huyễn dịch trên hay tốt nhất là hãy lấy máu toàn phần vô trùng từ tim gà bệnh tiêm vào lòng đỏ trứng phôi 4 – 5 ngày  tuổi, bịt kín ấp tiếp thêm 10 – 12 ngày nữa thì mổ phôi xem xét có các nốt sần trắng nằm rải rác trên màng nhung niệu sẽ cho chúng ta kết quả chắc chắn để khẳng định bệnh.

+ Phân lập virus Marek trực tiếp từ tế bào thân gà bệnh nghi mắc Marek.

(Xem sách bệnh Marek - một mô hình khối u truyền nhiễm của Lê Văn Năm – NXBNN – 1996)

Nguồn: Thư viện điện tử
Hệ thống Cơ sở dữ liệu Khoa học và công nghệ
Bản quyền thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình